NGUYÊN TẮC KẾ TOÁN CÁC KHOẢN DOANH THU
1. Doanh thu là lợi ích kinh tế thu được làm tăng vốn chủ sở hữu của
doanh nghiệp ngoại trừ phần đóng góp thêm của các cổ đông. Doanh thu được ghi
nhận tại thời điểm giao dịch phát sinh, khi chắc chắn thu được lợi ích kinh tế,
được xác định theo giá trị hợp lý của các khoản được quyền nhận, không phân
biệt đã thu tiền hay sẽ thu được tiền.
2. Doanh thu và chi phí liên quan đến việc tạo ra khoản doanh thu đó
(bao gồm chi phí của kỳ tạo ra doanh thu và chi phí của các kỳ trước hoặc chi
phí phải trả nhưng liên quan đến doanh thu của kỳ đó) phải được ghi nhận đồng
thời theo nguyên tắc phù hợp. Tuy nhiên trong một số trường hợp, nguyên tắc phù
hợp có thể xung đột với nguyên tắc thận trọng trong kế toán thì doanh nghiệp
phải căn cứ vào bản chất và các Chuẩn mực kế toán Việt Nam và quy định tại
Thông tư này để phản ánh giao dịch một cách trung thực, hợp lý.
- Một hợp đồng kinh tế có thể bao gồm nhiều giao dịch, doanh nghiệp phải
nhận biết các giao dịch để áp dụng các điều kiện ghi nhận doanh thu phù hợp với
quy định.
- Doanh thu phải được ghi nhận phù hợp với bản chất hơn là hình thức
hoặc tên gọi của giao dịch và phải được phân bổ theo nghĩa vụ cung ứng hàng
hóa, dịch vụ. Ví dụ khách hàng chỉ được nhận hàng khuyến mại khi mua sản phẩm
hàng hóa, dịch vụ của đơn vị (như mua 2 sản phẩm được tặng thêm một sản phẩm)
thì bản chất giao dịch là giảm giá hàng bán, sản phẩm, tặng miễn phí cho khách
hàng về hình thức được gọi là khuyến mại nhưng về bản chất là bán vì khách hàng
sẽ không được hưởng nếu không mua sản phẩm, dịch vụ. Trường hợp này giá trị sản
phẩm, dịch vụ tặng cho khách hàng được phản ánh vào giá vốn và doanh thu tương
ứng với giá trị hợp lý của sản phẩm, dịch vụ đó phải được ghi nhận. Doanh
nghiệp phải phân bổ giá giao dịch cho cả sản phẩm, dịch vụ bán và sản phẩm,
dịch vụ miễn phí trên cơ sở giá bán đơn lẻ của từng loại sản phẩm, dịch vụ làm
cơ sở xác định doanh thu của từng sản phẩm; giá trị sản phẩm miễn phí được phản
ánh vào giá vốn hàng bán. Tuy nhiên, nguyên tắc này có thể ngoại lệ đối với
trường hợp doanh nghiệp tặng hàng hóa, dịch vụ miễn phí cho khách hàng mà theo
đặc điểm mô hình kinh doanh, giá bán hàng hóa, dịch vụ chính của doanh nghiệp
không thay đổi cho dù khách hàng có nhận hay không nhận hàng hóa, dịch vụ tặng
kèm thì doanh nghiệp ghi nhận giá trị hàng hóa, dịch vụ tặng kèm cho khách hàng
vào chi phí bán hàng của doanh nghiệp tương tự trường hợp khuyến mại không kèm
theo điều kiện.
- Đối với các giao dịch làm phát sinh nghĩa vụ của doanh nghiệp ở thời
điểm hiện tại và trong tương lai, doanh thu phải được phân bổ theo giá trị hợp
lý của từng nghĩa vụ thực hiện và được ghi nhận khi nghĩa vụ đã được thực hiện.
3. Doanh thu, lãi hoặc lỗ chỉ được coi là chưa thực hiện nếu doanh
nghiệp còn có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ trong tương lai (trừ nghĩa vụ
bảo hành thông thường) hoặc chưa chắc chắn thu được lợi ích kinh tế; Việc phân
loại các khoản lãi, lỗ là thực hiện hoặc chưa thực hiện không phụ thuộc vào
việc đã phát sinh dòng tiền hay chưa.
Các khoản lãi, lỗ phát sinh do đánh giá lại tài sản, nợ phải trả không
được coi là chưa thực hiện do tại thời điểm đánh giá lại, đơn vị đã có quyền
đối với tài sản và đã có nghĩa vụ nợ hiện tại đối với các khoản nợ phải trả, ví
dụ: Các khoản lãi, lỗ phát sinh do đánh giá lại tài sản mang đi góp vốn đầu tư
vào đơn vị khác, chênh lệch tỷ giá do đánh giá lại các khoản mục tiền tệ có gốc
ngoại tệ,... đều được coi là đã thực hiện.
4. Doanh thu không bao gồm các khoản thu hộ bên thứ ba, ví dụ:
- Các loại thuế gián thu (thuế GTGT, thuế xuất khẩu,...) phải nộp;
- Các khoản phụ thu và phí thu thêm ngoài giá bán mà doanh nghiệp không
được hưởng;
- Số tiền người bán hàng đại lý thu hộ cho bên chủ hàng;
- Các trường hợp khác như các khoản doanh nghiệp đã thu từ khách hàng
nhưng khách hàng không sử dụng để thanh toán cho các hàng hóa, dịch vụ của
doanh nghiệp mà dùng để thanh toán cho các đối tác khác về các khoản như: ủng
hộ nhân đạo, thanh toán cho hàng hóa, dịch vụ do bên thứ ba cung cấp,... theo
quy định của pháp luật.
Trường hợp các khoản thuế gián thu phải nộp không tách riêng ngay được
tại thời điểm phát sinh doanh thu thì để thuận lợi cho công tác kế toán, doanh
nghiệp có thể ghi nhận doanh thu trên sổ kế toán bao gồm cả số thuế gián thu
nhưng định kỳ doanh nghiệp phải ghi giảm doanh thu đối với số thuế gián thu
phải nộp. Tuy nhiên, khi lập Báo cáo tài chính, doanh nghiệp bắt buộc phải xác
định và loại trừ toàn bộ số thuế gián thu phải nộp ra khỏi các chỉ tiêu phản
ánh doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh.
5. Thời điểm, căn cứ để ghi nhận doanh thu kế toán và doanh thu tính
thuế có thể khác nhau tùy vào từng tình huống cụ thể. Doanh thu tính thuế chỉ
được sử dụng để xác định số thuế phải nộp theo luật định; Doanh thu ghi nhận
trên sổ kế toán để lập Báo cáo tài chính phải tuân thủ các nguyên tắc kế toán
và tùy theo từng trường hợp không nhất thiết phải bằng số đã ghi trên hóa đơn
bán hàng.
6. Khi luân chuyển sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ giữa các đơn vị trực
thuộc của doanh nghiệp, tùy theo đặc điểm hoạt động, phân cấp quản lý của từng
đơn vị, doanh nghiệp có thể quyết định việc ghi nhận doanh thu tại các đơn vị
trực thuộc mà không phụ thuộc vào chứng từ kèm theo (hóa đơn hay chứng từ nội
bộ). Khi lập Báo cáo tài chính tổng hợp, tất cả các khoản doanh thu giữa các
đơn vị trực thuộc đều phải được loại trừ.
7. Doanh thu được ghi nhận chỉ bao gồm doanh thu của kỳ báo cáo. Tại
thời điểm kết thúc kỳ kế toán, doanh nghiệp phải kết chuyển doanh thu để xác
định kết quả kinh doanh trong kỳ. Các tài khoản phản ánh doanh thu không có số
dư.
